Từ móng vuốt của tên quản lý, tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó, nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút, nghĩ mông lung:
Thằng cha quản lý đã hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi, không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao, cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm, hai tay bó gối, buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên, húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tê vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà.
***
Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao, thật tối, có ghế sắp theo hình bán nguyệt. Phòng vắng vẻ, có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra, đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.
Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô hình.
Trước mắt tôi, trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính. Nhân vật thứ hai mập, má đầy thịt, hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại, nhìn tôi một cách tò mò.
Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ: "Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!"
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt, và với giọng bất bình tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy.
Ông chánh án lại hỏi:
- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nhìn thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên, bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng nghiệp.
Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ, và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm: "Họ muốn gì ở mình?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau, đưa tay lên trời kêu to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu.
Khi tôi tỉnh lại, chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tê vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc, hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi.
Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động.
Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm: "Đồ chó! Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!".
Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi, khi thấy tên kia đã sẵn sàng đê đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiêu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán.
Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra, đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp, lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước vàng, mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng.
Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối, phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải.
Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm, giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại, chứ không thê bước được.
Một tên lính đẩy mạnh vai tôi, ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang, tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua.
Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm.
Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ gì?
- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời, ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra.
Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng, lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là mình đã giết mụ già kia hay không.
Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.
Tôi không kê ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm, nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng: "Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...".
Tôi thắc mắc, nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại, phần xác vẫy vùng, tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ.
Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng, thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu, ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải, gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng, tiếng những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực, tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới, bàn cãi, mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng.
Với ánh sáng, tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường đê leo lên khung cửa sổ cho dê. Tôi leo lên đó, đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám đông, sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống, cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm: "Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miên sống được là được rồi!".
Tôi lại nhìn sang chợ, nhìn những mụ già đang ngồi sau những thúng rau, giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành, chống gậy, chắp tay sau lưng hút thuốc.
Tiếng động của đám đông, sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại tôi vẫn thấy sung sướng được còn sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy, có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tê, đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần, khuỷu tay đưa lên trên, đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy, vừa thấy hắn ta là tôi đã giựt nảy mình.
Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống, toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay, tái xanh hết cả mặt mày, lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn!
Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì?
Một ý nghĩ đột ngột, một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày, vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường, không còn có sự mơ hồ, dọ dẫm. Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi.
Vào khoảng mười giờ, viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú.
Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thê như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán.
Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức tranh, kinh ngạc đến cực độ.
Tôi đưa cánh tay ra, cả người run rẩy, nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc, Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ, đang chặt thịt ở thớt thứ ba, bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ.
Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm, đầu gục lên gối mệt nho