Tallant không biết bộ râu của thanh niên này đã hút bia bao lâu rồi. Anh gợi chuyện: - Và lũ Carkers là cái gì? - Ông có nghe chuyện Sawney Bean ở Scotland chưa? Dưới trào James I hay James VI, tôi nghĩ tác giả truyện cổ Roughead lần này đã lầm. Hay lấy một ví dụ cận đại nhất. Ông có nghe chuyện Benders ở Kansas, thập niên 1870 chưa? Chưa phải không? Vậy thì có nghe chuyện Procrustes? Hay Polyphemus? Hay Freefifofum?
Có ba-bị, ông biết đó. Ba-bị không phải là hoang đường, chúng có thật. Một cãi lữ quán, cứ mười người khách vào thì chỉ có chín người ra. Một cái lán bằng gỗ trên núi để khách qua đường tránh tuyết; mùa xuân đến, tuyết tan, mới phát hiện xương của họ; một khúc đường vắng nhiều khách bộ hành chỉ đi được nữa đường... ông có thể tìm thấy những chuyện tương tự ở khắp nơi, ở khắp châu âu và rất nhiều trên đất nước này, trước khi có nhiều phương tiện đi lại, liên lạc như ngày nay. Một công việc đem lại rất nhiều lợi lộc. Nhưng không chỉ có lợi lộc đâu. Quán của bọn Benders kiếm được nhiều tiền thì hẳn rồi, nhưng tại sao chúng phải giết người cẩn thận tỉ mỉ như tên đồ tể (kosher) giết thịt theo đạo Do thái qui định. Sawney Bean cũng giết người, nhưng không để ý đến tiền, hắn chỉ cần có thêm thịt trong mùa Đông. Và ông thử nghĩ tới dịp may của ông có được trong một sa mạc. - Vậy thì lũ Carkers mà anh nói tới là những ba-bị?
- Carkers, ba-bị... có lẽ họ giống như bọn Benders. Ông biết đó, chưa ai thấy bọn Benders sống bao giờ. Sau khi dân thành phố ở
Kansas phát hiện các xác chết bị lóc thịt một cách khác thường, có tin đồn là chúng đã di chuyển sang miền viễn Tây này. Người ta đã kiểm tra từng thời điểm rất kỹ. Không có thành phố viễn Tây nào ở trong tình trạng của bang Kansas hồi thập niên 80. Chỉ còn vài gia đình cuối cùng, của một bộ tộc da đỏ, sống ở ốc đảo này. Rồi những gia đình này cũng biến mất, khi lũ Carkers vào ốc đảo. Điều này thì còn gì nữa mà ngạc nhiên. Giống dân da trắng dẫu sao cũng là siêu-ba-bị mà. Chuyện dân da đỏ chết thì chẳng ai bận tâm, nhưng họ lại thắc mắc tại sao nhiều khách lữ hành không vượt qua khỏi dải sa mạc này. Các lữ khách thường nghĩ trọ ở lữ quán Carkers. Ông biết không, vì lý do nào đó họ không còn đi xa hơn được (không đến được địa chỉ định đến). Xe bò của họ, xe hơi của họ có thể tìm thấy cách đây mười lăm dặm trong sa mạc. Đôi khi còn tìm thấy nắm xương trắng của họ, hầu như bị gặm nhấm nham nhở. - Vậy mà chẳng có ai làm một việc gì với lũ Carkers à? - Ồ, có chứ. Không có vua James VI - tôi vẫn nghĩ là James I - cưỡi trên một con ngựa trắng lớn, đến đây cho qua chuyện đâu. Mà đã hai lần quân đội được phái đến quét sạch bọn họ.
Tallant mỉm cười: - Hai lần cơ à? Chỉ quét một lần thôi cũng đã giúp cho nhiều gia đình. - Vâng. Không phải chỉ nói mép. Họ đã quét lũ Carkers hai lần. Như ông thấy đấy, một lần chẳng ăn thua gì. Lính đã quét sạch họ, nhưng vẫn còn lữ khách biến mất, vẫn còn xương người bị nhai, nên quân đội lại phải tảo thanh lần nữa. Sau đó thì bộ đội lại bỏ mặc. Lữ khách tránh ốc đảo này, tuy hành trình xa hơn, vất vả hơn, nhưng dẫu sao... Tallant cười lớn: - Nói như anh thì lũ Carkers này bất tử? - Tôi không biết có gì bất tử không, nhưng lũ ấy không chết dễ dàng. Nếu chúng là bọn Benders - tôi vẫn nghĩ chính là chúng - có lẽ càng ngày chúng càng rút được nhiều kinh nghiệm về việc chúng làm ở sa mạc này. Có thể chúng phối hợp những hiểu biết của người da đỏ và những điều chúng biết, và chúng thành công. Không biết chúng phải hiến tế những gì và xem ra chúng hiểu cái hình nhân linh vật ấy hơn ở Kansas. - Và những linh vật ấy làm những gì, ngoài việc ta chỉ thoáng thấy chúng ở khóe mắt? - Từ sau hai vụ càn quét lũ Carkers, và nhóm cư dân mới ở ốc đảo này, đã bốn mươi năm rồi. Và dân chúng càng ít nói tới lũ
Carkers hơn, so với những năm đầu định cư. Có điều họ tránh bén mảng đến ‘ngôi nhà xưa Carker’. Họ chỉ còn nói vài chuyện. Linh mục xứ đạo kể, vào một buổi chiều thứ Bảy sáng bức, ông nghĩ rằng đã có một người quì xưng tội. Cha đợi một lúc lâu,. sau đó vén bức màn che ngăn cách xem có ai không. Có một con gì ở ngoài và nó đã đớp ông. Nó đớp mất ba ngón tay trên bàn tay phải của cha, và trông thật tức cười khi cha giơ tay lên ban phép lành. Tallant đặt hai vỏ chai bia trước mặt quản quầy, - Kể chuyện này, bạn thanh niên đáng hưởng một chai nữa. Đồng ý không, chủ quầy? Anh ấy có luôn vui chuyện như vậy không, hay anh ấy mới sáng tác chuyện này để khuyên tôi? Người phục vụ quầy đặt thêm hai chai mới, ra vẻ trịnh trọng: - Tôi ấy à, tôi sẽ không kể chuyện này cho ông như vậy. Chính anh này cũng là người mới tới, không cảm nhận sự việc như chúng tôi. Với anh ta, sự việc chỉ còn như một câu chuyện cổ.
Anh thanh niên có râu tu một hơi bia dài. - Cứ coi như vậy sẽ dễ chịu hơn. Người phục vụ thêm: - Ông đã nghe chuyện này, cũng nên nghe thêm vài chuyện ngộ nghĩnh vào mùa Đông. Bầy chó sói vào lán gỗ của người thăm dò địa chất chỉ để sưởi ấm thôi. Cũng như việc làm ăn của tôi không khá vào mùa Đông. Tôi không có giấy phép bán rượu mạnh, các thanh niên lại không thích uống nhiều bia khi trời lạnh. Nhưng dẫu sao họ vẫn cứ tới tụ điểm này vì có cái lò sưởi đốt dầu hôi to đùng kia. Một đêm nọ, họ tụ tập khá đông ở đây, có cả cụ Jake mà ông đã nói chuyện với đó, cả con chó Jigger của cụ nữa. Lúc đó, tôi cảm thấy như có ai vào quán, cửa hơi hé mở nhưng tôi chẳng thấy ai. Bàn xì phé vẫn tiếp tục chơi, chúng tôi vẫn tán gẫu như chúng ta bây giờ đây. Thình lình tôi nghe một tiếng rắc! ở góc kia, chỗ máy hát, sau lò sưởi. Tôi bước đến xem chuyện gì, linh vật đã đi ra, tôi không nhìn được rõ. Cái hình nhân bé tẹo, gầy tong teo, không có quần áo. Đêm đó lại lạnh khủng khiếp.
Tallant chộp đúng chỗ để hỏi: - Nhưng tiếng rắc đó là cái gì? - Cái đó à, cái xương! Nó đã xiết cổ con Jigger không một tiếng kêu. Nó chỉ là con chó nhỏ, linh vật đã ăn hết một phần thịt. Nếu nó không cắn vỡ xương để hút tủy, nó đã ăn hết rồi. Ông có thể nhìn thấy dấu vết ở bên đó. Cái vết máu không hề phai nhạt đi. Khi chủ quầy kể chuyện này, quán im lặng như tờ. Nhưng khi hết chuyện, quán ồn ào như địa ngục dấy lên. Ông trung sĩ phi hành thét lên một tiếng ai oán, chỉ trỏ điên loạn cái máy đánh bạc. Đòi nó trả số tiền ông đã thua nhẵn túi. Người công nhân xây dựng đùng đùng đứng dậy khỏi bàn phé, làm đổ ghế cái rầm, to tiếng tố cáo những người cùng chơi thông đồng gian lận. - Lũ bịp bợm! Các ông coi… Bầu không khí kinh hoàng do Carker gây ra, bao giờ cũng hoảng loạn, trác táng. Tallant, miệng huýt sáo, bước qua góc, nhét đồng xu vào máy hát. Anh vờ như vô tình nhìn thấy vết máu dưới sàn để đánh giá tình hình. Anh mỉm cười thích chí, cảm thấy phải cảm ơn lũ Carker. Chúng sẽ giúp anh giải quyết gọn nhẹ vụ bắt bí của Morgan.
- 3 -
Đêm đó anh mơ thấy mình nắm quyền lực giấc mộng thường xuyên của anh. Anh mơ mình cai trị quốc gia Liên Minh Mỹ, đang theo đường lối chiến tranh. Anh bảo người kia đến đây, người ấy đến, bảo người này đi, người này đi, bảo các phụ tá làm cái này, họ làm. Rồi chàng thanh niên để râu hiện ra trước mặt anh, chiếc áo khoác nhà binh của anh giống như áo choàng của một tiên tri trong Cựu Uớc. Anh nói: "Ông đã thấy ông vượt lên cao rồi, đúng không? Ông đang cưỡi trên đỉnh sóng, ông vẫn gọi là đợt sóng tương lai. Nhưng còn có những trũng sóng, giống nước ngầm ở dưới, đó là một phần của quá khứ. Và hiện tại, cả tương lai nữa, bao giờ cũng có ác tâm của con người. Thứ ác tâm còn đen tối hơn dã tâm của ông nhiều, kỳ cựu hơn của ông nhiều." Và còn có cả một cái gì mờ mờ sau lưng thanh niên, một hình nhân tí teo, ốm nhom, màu nâu. Sáng hôm sau, giấc mơ không hề khuấy động tâm trí Tallant. Anh cũng chẳng bận tâm đến chuyến viếng thăm sắp tới của Morgan. Anh chiên trứng với ba chỉ muối, ăn sáng ngon lành. Gió đã bớt mạnh, thời tiết cũng khá ấm. Anh xoay trần ra dọn cây làm nền nhà. Mã tấu của anh vung lên, lóe sáng trong không khí và phạt vào gốc các bụi cây.
Morgan đến, mặt càng tròn, đỏ gay và nhễ nhại mồ hôi. Tallant đề nghị: - Dưới bóng nhà xưa lạnh lắm. Nhưng hy vọng chuyện ôn cố của chúng ta sẽ làm chúng ta thoải mái. Dưới bóng mái nhà thoải mái đó, mã tấu vung lên, chẻ cái mặt bụ bẫm đỏ gay của Morgan ra làm hai. Thật đơn giản, chẳng tốn công bằng cuốc đứt rễ một bụi cây. Và lại còn an toàn nữa. Morgan sống trong một túp lều cây, trên đường địa-ngục-mai-một, lại thường đi thăm dò địa chất. Chẳng ai để ý tới việc ông ấy đi vắng cả tháng. Như vậy, ai mà tưởng tượng ra ông ta đến liên hệ với Tallant. Và cũng chẳng ai đến nhà xưa để tìm ông ta cả. Cái xác khá nặng, máu nóng hổi ròng ròng trên da thịt Tallant. Cuối cùng thì anh cũng quăng được cái khối nặng, vốn là Morgan xuống sàn nhà, như giải thoát một gánh nặng. Phòng không có sàn gỗ, chẳng có nền đá, chỉ có nền đất thường. Đào một cái huyệt chẳng khó khăn gì. Sẽ chẳng có ai lảng vảng đến gần cái nhà cấm kỵ này mà thấy được cái huyệt. Chỉ qua một năm là xương của hắn có thể gán cho "the Carkers." Góc mắt của anh bắt đầu quấy rầy anh. Anh chú ý quan sát bên trong ngôi nhà. Chơ chỏng vài món đồ đạc sơ sài và nặng nề, chẳng thèm làm nhẵn những vết búa trên gỗ nữa. Đồ gỗ được ráp lại với nhau bằng chốt gỗ hay những dây da sắp mẻm. Có tro và vài mẩu củi cháy dỡ, vài mảnh sành trong lò. Một tảng đá có lỗ lõm xuống, đầy vết sét rỉ, như thể đá cũng bị rỉ như sắt. Sau cụm đá là một hình nhân còi, làm vụng về bằng đất sét và vài cành cây. Nó nửa giống người, nửa giống thằn lằn, giống như cái vật đã vụt thoáng qua khóe mắt anh ấy.
Càng tò mò, Tallant bước vào sâu hơn, đến một cửa sổ không kính, tuy có chút ánh sáng nhưng rất mờ. Anh há hốc miệng, nỗi sợ hãi chụp lấy anh khiến anh cứng người lại một lúc. Rồi anh nhếch mép cười khinh bỉ rồi phá ra cười sang sảng ngạo mạn. Cái này đây đã giải thích tất cả. Chắc một người nào đó đã nhìn thấy thứ này và loan truyền chuyện ma quái ra. Bọn nhà Carkers đã học được vài bí thuật của người da đỏ, nhưng chung qui chỉ là thuật ướp xác thôi. Hoặc là họ đã ướp làm xác thu nhỏ lại, hoặc họ ướp một cái xác của bé trai mười tuổi. Cái xác ướp thật hoàn hảo. Xác không còn thịt, chỉ những xương và da, nối bằng những sợi gân co cứng. Mí mắt co lại trên cái hốc mắt sâu hoắm. Mũi teo quắt lại như thể đã biến mất. Cặp môi mỏng tanh co về phía lợi, khiến hàm răng trắng nhởn càng nhô ra đe dọa, trên nền da nâu đậm. Cái xác ướp là một linh vật quí. Tallant đang tính toán để kiếm một món tiền, bằng cách bán nó cho một nhà nhân chủng học - dẫu sao sát nhân cũng tạo ra những vụ ki